Rồng – Phượng trong nghệ thuật thời Nguyễn

Huế là kinh đô cuối cùng của Việt Nam dưới thời quân chủ, được các chúa Nguyễn chọn làm thủ phủ của Đàng Trong (1636-1775), rồi kinh đô của vương triều Tây Sơn (1788-1801), kinh đô của vương triều Nguyễn (1802-1945), vùng đất này đã có quá trình hội tụ, bồi đắp và tỏa sáng khi đóng vai trò là trung tâm chính trị, văn hóa của Việt Nam suốt giai đoạn từ cuối thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XX. Trong giai đoạn này, Huế giữ vị thế là đầu tàu của nền nghệ thuật dân tộc, cả nghệ thuật cung đình cao sang, quý phái và nghệ thuật dân gian sinh động, phong phú.

Đài thờ chạm rồng và hình phượng mai trên nắp đài thờ

Nổi bật và phổ biến nhất trong các hình tượng nghệ thuật của Huế là hình tượng Tứ linh (bốn con vật thiêng, gồm: Long (rồng); phượng (phượng hoàng), lân (kỳ lân) và linh quy (rùa thiêng), và tiêu biểu nhất trong tứ linh là rồng và phượng. Dẫu đây là hình tượng nghệ thuật có từ rất sớm, có quá trình phát triển liên tục qua các triều đại, nhưng phải đến thời Nguyễn, với trung tâm văn hóa nghệ thuật Huế, thì các hình tượng này mới xuất hiện phong phú, hoàn chỉnh và có phong cách riêng như vậy.

RỒNG

Rồng là hình tượng đặc biệt trong nghệ thuật truyền thống Việt bởi linh vật này là một trong những biểu tượng văn hóa quan trọng nhất gắn liền với nguồn gốc ra đời của dân tộc. Người Việt Nam tự nhận mình là con Rồng cháu Tiên, trong đó Rồng là biểu tượng của yếu tố dương, của người cha, của núi, của sức mạnh…, còn Tiên là biểu tượng của yếu tố âm, của người Mẹ, của biển, của sự mềm mại…

Rồng xuất hiện trong nghệ thuật Việt rất sớm, nhưng phải đến thời Nguyễn, hình tượng rồng mới đạt đến sự phong phú tối đa về đề tài, chất liệu và hình thức biểu đạt.

Linh vật rồng tiêu chuẩn phải là sự hội tụ đầy đủ các đặc điểm được cho là tốt đẹp nhất của 9 con vật có thật: Thân rắn, vảy cá chép, đầu lạc đà, sừng hươu, chân hổ, móng vuốt đại bàng, tai bò, mũi và bờm sư tử, đuôi gà trống. Và nếu là rồng tượng trưng cho hoàng đế thì thân phải có 81 vảy dương, 36 vảy âm, thân uốn 9 khúc (tức phải là số 9 hoặc bội số của 9 – con số lẻ – số dương cao nhất); chân rồng lại phải có 5 móng (số chính giữa trong hàng số lẻ). Thiếu những yếu tố trên, rồng không còn là linh vật rồng đích thực nữa mà là những biến thể của nó. Những biến thể này thường được dùng tượng trưng cho hoàng tử, hoàng thân và các quan lại, hay đơn giản chỉ dùng để trang trí như mãng long, giao long, long mã…


Rồng được trang trí trên nóc điện Long An

Thời Nguyễn, các tác phẩm nghệ thuật gắn liền với hình tượng rồng nay vẫn bảo tồn được vô số. Trên chất liệu vàng bạc, hình rồng được điêu khắc tinh xảo phải kể đến là những chiếc ấn báu của Hoàng gia và những chiếc bình phong, trấn phong vô giá. Hình rồng được tạc thành núm ấn với nhiều kiểu dáng: uốn khúc tư thế chầu, ngồi xổm, nằm sấp, nằm ngửa… hình dáng sinh động nhưng vẫn giữ được vẻ oai nghiêm. Trên bình phong thì thường tạo tác thành từng đôi đối xứng kiểu rồng chầu mặt trời, chầu mặt trăng hoặc hình mặt rồng nhìn thẳng.

Trên đồ đồng thì hình tượng rồng đặc trưng nhất phải kể đến hình rồng khắc trên Cao đỉnh trước tòa Thế Miếu trong Hoàng thành Huế. Đó là hình tượng “phi long tại thiên” (rồng bay giữa trời) với khí thế hiên ngang, ung dung tự tại giữa mây lành, thân rồng lẫn vào mây, chỉ lộ rõ đầu, đuôi và bàn chân với 5 móng vuốt. Đó cũng là hình ảnh vị hoàng đế ở ngôi vị cao nhất để cai trị thiên hạ. Trước nhà hát cổ Duyệt Thị Đường cũng có đôi rồng điêu khắc đồng tuyệt đẹp. Rồng đặt trên bệ vuông, thân nửa phần cuộn quanh, nửa phần dựng lên để tạo dáng ngồi xổm rất thú vị. Mắt rồng nhìn thẳng, bờm và vây lưng dựng đứng, dáng vẻ ngộ nghĩnh hơn là oai vệ.

Trên chất liệu đá, hình tượng rồng thường được tạc thành khối riêng hoặc dạng phù điêu, trang trí hai bên bậc cấp lối đi, trên bình phong, trên bia đá quan trọng ở lăng tẩm. Những đôi rồng điêu khắc trên bình phong lăng Thiên Thọ Hữu, lăng Hiếu Đông được xem là đạt đến vẻ đẹp kinh điển. Rồng chầu hai bên thành bậc cung điện, lăng tẩm thường được thể hiện đang trườn từ trên cao xuống, thân uốn nhiều khúc, đầu ngẩng cao, mắt nhìn thẳng. Ở một số nơi như lăng Gia Long, lăng Khải Định, rồng chầu thành bậc được tạo tác với kích thước rất lớn nhưng đắp bằng vôi vữa, mắt rồng còn gắn bằng thủy tinh màu sinh động.

Nhưng rồng đắp vữa gắn sành sứ phổ biến nhất vẫn là trên nóc mái cung điện, cung điện càng quan trọng thì trang trí rồng càng nhiều, kích thước càng lớn, tiêu biểu là nóc mái Ngọ Môn, cổng chính của Hoàng thành và điện Thái Hòa, ngôi điện có chiếc ngai vàng của triều đại ngự trị. Nhiều nhà nghiên cứu mỹ thuật cho rằng, đứng ở phía nào của điện Thái Hòa người ta cũng đều thấy hình ảnh của 9 con rồng đang bay lượn trên nóc mái. Điều đó cũng khiến công trình trở nên nhẹ nhàng, thanh thoát. Ở một số bình phong xây gạch đắp vữa, rồng được thể hiện dưới dạng phù điêu nổi cũng đạt đến giá trị mỹ thuật rất cao, tiêu biểu là rồng trên bình phong sau điện Lương Khiêm ở lăng Tự Đức, mặt rồng ở bình phong trước lăng Cơ Thánh (lăng vị thân sinh vua Gia Long)…

Rồng được thể hiện trên chất liệu gỗ thời Nguyễn rất phong phú, nhưng tiêu biểu nhất là trên chiếc ngai vàng và bức bảo tán che bên trên. Tuy nhiên, đạt đến trình độ nghệ thuật cao nhất phải là các bộ vì nóc chạm nguyên khối hình rồng ở điện Long An. Đó là những bức gỗ lim rất lớn được chạm lộng vô cùng khéo léo hình rồng lẫn trong mây nước, đầu đội đòn tay nóc, 4 chân vươn ra đỡ các đòn tay bên. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng đây là những kiệt phẩm của nghệ thuật điêu khắc gỗ.

Rồng thời Nguyễn còn được thể hiện trên nhiều chất liệu khác, như sơn mài, sơn thếp vàng bạc, ngọc, ngà, xương, đồ pháp lam, đồ gốm sứ, đồ dệt, thêu..vv.. mà chất liệu nào cũng có không ít các tác phẩm xuất sắc. Đạt được thành tựu trên chỉ có thể lý giải bằng nguyên do, Rồng đã trở thành một đặc trưng của văn hóa Việt thời Nguyễn.

Đỉnh thờ chạm Rồng (bảo vật triều Nguyễn)

PHƯỢNG

Cũng như rồng, phượng hoàng hay phượng là một hình tượng đặc biệt trong văn hóa Việt, cả hai cùng thuộc bộ Tứ linh, và hơn thế là một cặp đối xứng biểu trưng cho những gì tốt đẹp, cao quý nhất. Nhưng không như rồng, vốn có nguồn gốc từ phương Bắc, phượng hoàng có thể là sản phẩm của cư dân phương Nam.

Tư Mã Thiên trong bộ Sử ký nổi tiếng đã ghi rằng: “Năm Tân Mão thứ sáu (1.110 TCN) đời Thành Vương nhà Chu, họ Việt Thường thị ở bộ Giao Chỉ sai sứ dâng chim trĩ trắng. Sứ giả không thuộc đường về, Chu Công cho 5 cỗ xe làm theo lối chỉ nam theo đường ven biển về nước, đi tròn năm mới về đến nơi”. Chim trĩ trắng sau đó mới chuyển hóa thành hình tượng phượng hoàng, loài chim tượng trưng cho sự đoan trang, cao quý và sắc đẹp của người phụ nữ.

Trong văn hóa Việt, hình tượng phượng hoàng xuất hiện từ rất sớm. Có người cho rằng, hình tượng chim Lạc trên trống đồng Đông Sơn chính là sự khắc họa có tính điển hình đầu tiên. Đó là loài chim thần, đang bay lượn trong điệu múa của vũ trụ để vạn vật sinh sôi và hòa hợp. Nếu đúng như vậy, từ buổi nguyên thủy phượng hoàng đã là linh điểu trong tô tem của người Việt cổ.

Sau khi tiếp nhận ảnh hưởng của văn minh Trung Hoa, phượng hoàng có những thay đổi nhưng vẫn là linh vật quan trọng hàng đầu và là biểu tượng của phương Nam. Phượng hoàng là Thái âm, hợp với rồng (Thái dương) để tạo nên một cặp đối xứng âm – dương trong Tứ tượng.

Phượng hoàng là linh điểu nên cũng như rồng, nó là sự tập hợp những nét ưu việt nhất của các loài vật như đầu gà, hàm én, cổ rắn, lưng rùa, đuôi cá…, thân mang năm màu của Ngũ hành là đen, trắng, đỏ, xanh và vàng, đồng thời tượng trưng cho sáu yếu tố bao hàm cả vũ trụ: đầu là bầu trời, mắt là Mặt trời, lưng là Mặt trăng, cánh là gió, chân là đất và đuôi là các hành tinh… Chính vì vậy phượng hoàng múa là biểu trưng của vũ trụ đang vận hành.

Phượng trên bảo vật triều Nguyễn (trên thân lọ)

Trong kiến trúc và trang trí, hình tượng phượng hoàng có sớm không kém gì rồng, thậm chí còn phổ biến và đa dạng hơn nhiều, sự chau chuốt và chất nghệ thuật cũng hơn hẳn. Đến thời Nguyễn thì các quy định trở nên vô cùng chặt chẽ. Mão đại triều của hoàng hậu có gắn 9 con chim phượng bằng vàng, xiêm y cũng vậy nhưng là thêu bằng chỉ vàng, kim tuyến. Từ bậc quý phi xuống đến cung tần, tiệp dư…thì căn cứ vào thứ bậc để giảm về số lượng và mức độ trang trí.

Trong kiến trúc, hình tượng phượng hoàng xuất hiện khắp nơi. Thành Gia Định từ thời Minh Mạng đến thời Tự Đức (1836- 1859) được gọi là Phụng Thành (Đàng trong gọi phượng là phụng). Tòa thành này đã bị thực dân Pháp san phẳng khi đánh chiếm Nam bộ. Tại kinh đô Huế, toàn bộ phần kiến trúc gỗ bên trên cổng chính Ngọ Môn của Hoàng thành có tên là lầu Ngũ Phụng. Nhiều người thắc mắc vì sao ca dao Huế có câu: “Ngọ Môn 5 cửa 9 lầu” mà lại gọi là lầu Ngũ Phụng? Thực ra, chữ “Ngũ Phụng” ở đây chỉ có nghĩa biểu trưng, vì phượng là linh điểu tượng cho phương Nam. Ngọ Môn là cổng chính quay mặt về hướng Nam nên mới mang tên ấy. Lầu Ngũ Phụng còn mang ý nghĩa là nơi nhà vua trọng thị mời gọi và đón tiếp hiền tài từ bốn phương về tụ hội, vì “hiền tài là nguyên khí của quốc gia”. Trong thời kỳ này, các bậc học giả thi đỗ đại khoa đều được ví như phượng hoàng. Bởi vậy mới có chuyện, khoa thi năm Mậu tuất 1898, đất Quảng Nam có đến 5 vị cùng thi đỗ đại khoa (2 Phó bảng, 3 Tiến sỹ) thì được vinh danh là xứ sở có “ngũ phụng tề phi” (5 chim phượng cùng bay lên).

Tuy vậy, hình ảnh phượng hoàng vẫn gắn nhiều hơn với hình tượng nữ giới trong cung. Cung Diên Thọ vốn dành cho Thái hậu nên nóc mái đều được trang trí hình chim phượng. Chim phượng cũng được tạo hình thành từng cặp trên bình phong của cung Trường Sanh (dành cho Thái hoàng thái hậu), bình phong lăng Khiêm Thọ (lăng hoàng hậu Lệ Thiên, vợ vua Tự Đức)… Phượng hoàng cũng xuất hiện nhiều có khi đơn lẻ, có khi chung trong bộ Tứ linh, trên các phù điêu trang trí tại các ô hộc, liên ba cổng, tường, mái cung điện bằng các loại chất liệu phong phú: gỗ, đá, mảnh sành sứ, đắp vôi vữa… Có một hình ảnh rất đẹp thường gặp trong kiểu trang trí này là phượng hoàng đậu trên cây ngô đồng. Ngô đồng là giống cây quý, cũng là loài cây duy nhất mà phượng hoàng chọn để đậu. Phượng hoàng xuất hiện là sự báo điềm lành, là sự khởi đầu của hòa bình, thịnh vượng, quốc thái dân an. Có lẽ vì mong mỏi điều ấy mà vua Minh Mạng đã cho trồng 4 cây ngô đồng ngay sau điện Thái Hòa và trước điện Cần Chánh. Đến nay, những cây cổ thụ này vẫn đều đặn nở hoa tím biếc cả một khoảng trời mỗi mùa hè chớm về chốn hoàng cung.

Có thể nói, hình tượng rồng – phượng thời Nguyễn đã được các nghệ nhân đương thời thể hiện trên nhiều chất liệu khác nhau. Ngoài biểu trưng cho quyền uy, hình tượng rồng – phượng còn là lời cầu mong sự trường trị, phồn thịnh của chế độ. Từ nghệ thuật truyền thống, linh vật rồng – phượng đã đi vào mỹ thuật cung đình, được tối ưu hóa để mang hình ảnh của quyền lực tối cao của vương quyền, nhưng đồng thời cũng là biểu trưng cho sự khai mở, cho khát vọng một xã hội thái bình, thịnh trị. Linh vật rồng – phượng thời Nguyễn đã để lại một di sản đồ sộ về mặt tạo hình, là biểu tượng đa chiều của văn hóa Việt Nam.

TS. Phan Thanh Hải
Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế

Có thể bạn quan tâm: